Nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện ở trường trung học - ThS. Hồ Sỹ Anh

Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời là mục tiêu của đổi mới chương trình GDPT (GDPT) mới. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này, cần phải nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện. Năm 2018, nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu đã hoàn thành đề tài cấp Bộ: “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện tại các trường THCS tỉnh Lâm Đồng” do thạc sĩ Hồ Sỹ Anh làm chủ nhiệm. Trong Đề tài này có 2 vấn đề quan trọng được giải quyết, đó là: Hoạt động giáo dục toàn diện là gì và giải pháp nào để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện ở trường trung học hiện nay. Bài viết này đề cập đến 2 vấn đề nêu trên.

1. Hoạt động giáo dục toàn diện

Theo qui định của chương trình GDPT hiện hành, hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên lớp, hoạt động ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL) nhằm giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. Trong đó: Hoạt động trong giờ lên lớp bao gồm hoạt động dạy của giáo viên (GV) và hoạt động học của HS, nhằm tạo dựng hệ thống tri thức khoa học và qua đó hình thành nhân cách (phẩm chất và năng lực) cho HS; Hoạt động ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL) được hiểu là quá trình kết hợp có mục đích vai trò chủ đạo của GV với hoạt động của học sinh nhằm hình thành ý thức, tình cảm, hành vi thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Qua nhiều con đường, đặc biệt con đường dạy học và HĐNGLL, giáo dục hướng tới sự hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp cho HS.

Tuy nhiên, với quan điểm hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên lớp và HĐNGLL như hiện nay đã bộc lộ một số hạn chế như: chương trình giáo dục vẫn tập trung nhiều vào các môn học trên lớp, chưa chú ý đúng mức các hoạt động giáo dục mang tính trải nghiệm, rèn luyện đạo đức và kĩ năng; về phương pháp giảng dạy lại quá thiên về truyền đạt kiến thức lí thuyết, hàn lâm mà ít chú trọng đến gắn việc học của HS với giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra; một bộ phận CBQL,  GV coi giáo dục toàn diện là phải giáo dục trên tất cả các lĩnh vực, được thể hiện ở các môn học, trong đó chủ yếu bố trí thời gian học ở trên lớp, còn các hoạt động khác có thể nhiều hoặc ít, có khi không có tuỳ theo tình hình thời gian và tài chính; năng  lực tự học và tự giáo dục của HS chưa chú trọng đúng mức, trong khi yêu cầu của mục tiêu chương trình GDPT mới, năng lực tự chủ và tự học là năng lực quan trọng nhất trong 10 năng lực cần hình thành ở HS. Tự học và tự giáo dục của chính là con đường phát triển nhân cách bền vững nhất của con người.

Với những lí do trên, trong chương trình GDPT mới, hoạt động trải nghiệm (cấp tiểu học) và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp (cấp THCS, THPT) sẽ thay thế cho HĐNGLL. Hoạt động trải nghiệm là các hoạt động giáo dục bắt buộc, trong đó HS dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau để trải nghiệm đời sống học đường, gia đình, xã hội, tham gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thuộc đặc thù hoạt động này như năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong cuộc sống, kĩ năng sống,... Nội dung cơ bản hoạt động trải nghiệm xoay quanh các mối quan hệ giữa cá nhân HS với bản thân, giữa HS với người khác, với cộng đồng và xã hội, giữa HS với môi trường và giữa HS với nghề nghiệp.

Như vậy, hoạt động giáo dục toàn diện là những hoạt động nhằm tác động lên sự hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực, phát triển hài hòa đức, trí, thể, mĩ và phát huy cao nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của HS, chúng bao gồm các hoạt động như: hoạt động dạy học của giáo viên, hoạt động trải nghiệm của HShoạt động tự học, tự giáo dục của HS.

Trong đó, theo GS.VS Nguyễn Cảnh Toàn, tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, (so sánh, quan sát, phân tích, tổng hợp,...) và có khi cả cơ bắp (khi phải dùng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó,...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Còn tự giáo dục là hoạt động có mục đích, có ý thức của cá nhân hướng vào việc xây dựng, hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của mình theo đúng chuẩn mực xã hội. Vì vậy, tự giáo dục có cơ sở là tự đánh giá, hay nói cách khác trình độ phát triển của tự đánh giá là điều kiện quan trọng của tự giáo dục. Lão Tử (Trung Quốc) cho rằng: “Người thầy tốt nhất là chính mình”. Nghị quyết số 29-NQ/TW đã khẳng định: “Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo điều kiện để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực”. Đồng thời, với cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra, đòi hỏi sự đóng góp của mọi giới năng động hơn, tự lập, tự do, tự học, tự nghiên cứu, tự tiến bộ, tự động viên, nhất là óc sáng tạo.

Với quan điểm trên, hoạt động giáo dục toàn diện gồm 3 hoạt động thành phần đó là: hoạt động dạy học của GV (hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò), hoạt động trải nghiệm của HS (tổ chức, hướng dẫn, trọng tài của thầy và chủ thể tham gia của trò), hoạt động tự học, tự giáo dục (tổ chức hoạt động tự học cho HS của thầy và tự học, tự giáo dục của cá nhân hoặc nhóm HS). Sản phẩm của 3 hoạt động này chính là các phẩm chất và năng lực của HS được hình thành và phát triển.

2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện

Chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện của một nhà trường chính là chất lượng dạy học của GV, chất lượng hoạt động trải nghiệm của HSchất lượng hoạt động tự học, tự giáo dục của HS. Vi vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện là nâng cao chất lượng của 3 hoạt động nói trên và một số CBQL trường học cho rằng, đây chính là thế “kiềng 3 chân” đảm bảo cho một nhà trường phát triển có chất lượng và bền vững.

Để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau: Thứ nhất, nâng cao nhận thức, hiểu biết về phát triển toàn diện và hoạt động giáo dục toàn diện theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục CBQL, GV, HS và phụ huynh HS. Giải pháp này sẽ từng bước khắc phục tình trạng “mục tiêu phát triển toàn diện chưa hiểu và thực hiện đúng; Thứ hai, bồi dưỡng nâng cao năng lực tổ chức hoạt động giáo dục toàn diện cho CBQL và giáo viên. Đối với CBQL, đó là năng lực xây dựng kế hoạch, năng lực huy động các nguồn lực để tổ chức tốt các hoạt động giáo dục toàn diện; còn đối với GV, đó là năng lực vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát triển năng lực HS, năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm và năng lực hướng dẫn HS tự học; Thứ ba, giải pháp đổi mới công tác đánh giá hoạt động giáo dục toàn diện, bao gồm đổi mới trong đánh giá giảng dạy của GV theo chủ đề tích hợp, đánh giá việc tổ chức thực hiện một chủ đề hoạt động trải nghiệm của GV và đánh giá chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện của một trường học. Để đánh giá chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện của một trường cần xây dựng bộ tiêu chuẩn gồm nhiều chỉ số liên quan đến đầu vào, quá trình và đầu ra của hoạt động giáo dục toàn diện; Thứ tư, giải pháp đầu tư, quản lí và khai thác cơ sở vật chất – kĩ thuật trường học,  thiết bị trường học phục vụ cho hoạt động giáo dục toàn diện. Cơ sở vật chất – kĩ thuật trường học được hiểu là những cơ sở vật chất - thiết bị do nhà trường quản lí, sử dụng và cở sở vật chất - kĩ thuật xã hội như sân vận động, nhà bảo tàng, di tích lịch sử, nghĩa trang liệt sĩ, nhà máy, nông trại,... mà nhà trường có thể mượn hoặc thuê để phục vụ cho hoạt động giáo dục; Thứ năm, giải pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện. Cần phải nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sự phối hợp cho CBQL, GV, phụ huynh và cộng đồng, xác định những nội dung cần phối hợp từng năm và huy động nguồn lực về cơ sợ vật chất và con người để thực hiện các hoạt động giáo dục toàn diện hiệu quả, nhưng tránh xu hướng chỉ đơn thuần là huy động về mặt tài chính của phụ huynh và xã hội để chi phí cho hoạt động.

Năm giải pháp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, giải pháp nâng cao nhận thức về phát triển toàn diện và hoạt động giáo dục toàn diện cho CBQL, GV, HS và phụ huynh là quan trọng nhất và là nền tảng cho các giải pháp khác; giải pháp đổi mới đánh giá hoạt động giáo dục toàn diện gắn kết với giải pháp nâng cao năng lực hoạt động giáo dục toàn diện cho CBQL, GV; giải pháp đầu tư, khai thác cơ sở vật chất hiệu quả và phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội là những giải pháp đảm bảo các điều kiện để để hoạt động giáo dục toàn diện có chất lượng.

Bài viết đã được đăng ở Báo Giáo dục và Thời đại, số Thứ sáu, 29/6/2018